Tin công nghệ

Managed Services - Giải pháp để các nhà khai thác tập trung vào mảng kinh doanh chính

12/05/2017 - 02:54

Trong lĩnh vực Viễn thông, các nhà khai thác Viễn thông cũng có thể thuê ngoài (outsorce) toàn bộ việc thiết lập, vận hành bảo dưỡng kỹ thuật mạng cho các đơn vị chuyên nghiệp làm, dành toàn bộ nguồn lực cho việc kinh doanh, marketing dịch vụ, chăm sóc khách hàng, giữ khách hàng và tăng doanh thu.

Managed Services là gì?

Khái niệm dịch vụ Thiết lập, Quản lý vận hành, Bảo dưỡng mạng – Managed service  là một khái niệm khá mới trong lĩnh  vực  Viễn  thông.  Trong  khi  các ngành khác đã sử dụng và phát huy được hiệu quả của việc  thuê ngoài một phần các hoạt động của mình để tập trung vào những hoạt động chính mang lại doanh thu  thì hầu hết  các nhà  khai  thác Viễn thông  vẫn  coi  việc  thiết  lập,  vận  hành và bảo dưỡng mạng là một trong những hoạt động chính của họ.

Giống  như  việc  kinh  doanh  khách sạn, các tập đoàn như Accor, Sheraton,… không  cần  phải  tự  đi  xây  dựng,  bảo dưỡng kỹ thuật các khách sạn mà chỉ cần tập trung nguồn lực của họ để xây dựng đội ngũ quản  lý dịch vụ và kinh doanh thu hút khách đến khách sạn của mình, trong lĩnh vực Viễn thông, các nhà khai thác Viễn thông cũng có thể thuê ngoài (outsorce) toàn bộ việc thiết lập, vận hành bảo dưỡng kỹ thuật mạng cho các đơn vị chuyên nghiệp làm, dành toàn bộ nguồn lực cho việc kinh doanh, marketing dịch vụ, chăm sóc khách hàng, giữ khách hàng và tăng doanh thu.


 Những  nội  dung  nhà  cung  cấp Managed  services  có  thể  cung  cấp  cho các nhà khai thác bao gồm:
  - Lập kế hoạch, thiết kế mạng, tối ưu hóa mạng và phát triển mạng.

  -  Xây  dựng  mạng  lưới,  tích  hợp mạng, phát triển dịch vụ và các hệ thống hỗ trợ như hệ thống CRM, OS, CCBS,...
  - Thực hiện các công việc hàng ngày để đảm bảo hoạt động của mạng như vận hành bảo dưỡng mạng và các hệ  thống hỗ  trợ,  các  dịch  vụ  ngoài  thực  địa,  các dịch vụ hỗ trợ khách hàng như nhận đặt dịch vụ, trả lời khách hàng,...  

  - Cung cấp, bổ sung những năng lực mạng  cần  thiết  cho  nhà  khai  thác  khi cần,  hoặc  việc  hosting  các  dịch  vụ,  các ứng dụng và các hỗ trợ cần thiết trên hệ thống của mình như các dịch vụ: email, giá trị khác.

Trên  thực  tế  triển  khai,  Managed services được  triển khai với nhiều mức độ và phạm vi khác nhau và được  thỏa thuận dựa  trên  “thỏa  thuận  về mức độ dịch vụ” SLA (Services Level Agreement) và  được  đo  lường  bằng  “chỉ  số  chất lượng  dịch  vụ”  KPI  (Key  Performance Indicator). 
- Mức  độ  thấp  nhất  của Managed services  là  mức  Giao  nhiệm  vụ  (Out-tasking):  một  phần  công  việc  quản  lý mạng được giao cho nhà cung cấp dịch vụ Managed serviecs thực hiện. Mức này sẽ giảm được một phần chi phí khai thác và nhân lực cho nhà khai thác Viễn thông. 

- Mức độ thứ hai cao hơn là mức độ giao cho nhà cung cấp Managed services thực hiện toàn bộ việc vận hành kỹ thuật, tối  ưu  hóa mạng,  thiết  kế  và  xây  dựng mạng. Điều  này  sẽ  dẫn  tới  việc  chuyển giao một  số  nhân  lực  từ  nhà  khai  thác sang nhà cung cấp dịch vụ vận hành bảo dưỡng mạng.  Việc  thuê  đơn  vị  chuyên nghiệp  thực hiện  toàn bộ việc vận hành kỹ thuật mạng sẽ giảm được đáng kể nhân lực chi phí OPEX cho nhà khai thác. Đây là mô hình phổ biến nhất hiện nay.

-  Mức  độ  cao  hơn  của  Managed services  là ngoài  việc  chịu  trách nhiệm hoàn  toàn về vấn đề kỹ  thuật khai  thác vận  hành  và  phát  triển  mạng,  đơn  vị cung cấp dịch vụ Managed services còn thực hiện cả phần thuê vị trí, nhà trạm, ăng ten phát sóng và toàn bộ phần truyền dẫn. Nhà cung cấp Managed services sẽ phải  đảm  bảo  chỉ  số  chất  lượng mạng. Với mô hình này, nhà khai thác sẽ không chỉ  tiết  kiệm  được  chi  phí  nhân  công mà cả những chi phí khác liên quan đến mạng lưới, chi phí đầu tư mạng.  

 -  Mức  độ  cao  nhất  của  Managed services  là  việc  nhà  cung  cấp Managed services chịu trách nhiệm cả việc tối ưu hóa mạng. Điều này có nghĩa  là đơn vị chịu  trách  nhiệm  Managed  service  sẽ thay mặt nhà khai thác Viễn thông tối ưu hóa dung lượng và vùng phủ của dịch vụ thông qua việc chỉ cung cấp dung lượng mạng khi nào cần thiết và ở những vị trí cần  thiết. Việc phát  triển mạng  sẽ  theo sát với nhu cầu và tránh được việc phát triển mạng nhiều hơn hoặc thấp hơn so với nhu cầu. Nhà khai  thác chỉ phải  trả cho  dung  lượng  và  vùng  phủ  sóng  cần thiết. Đây  là mô hình hiệu quả nhất  sẽ giảm đáng kể kinh phí đầu  tư mạng và chi phí  vận hành mạng. Cho  thuê  (mô hình hosting) dung lượng mạng lưới như dung  lượng ổ  cứng, dung  lượng  truyền dẫn,  chuyển  mạch,  dung  lượng  mạng truy nhập,  cho  thuê hệ  thống  cung  cấp dịch  vụ,  phần mềm  ứng  dụng,  các  hệ thống  cung  cấp dịch vụ gia  tăng giá  trị thuộc mức  độ  này. Nhà  cung  cấp  dịch vụ  là đơn vị xây dựng và  sở hữu mạng và cho thuê các nhà khai thác, các đơn vị này sẽ khai thác trên cùng 1 hạ tầng của nhà cung cấp dịch vụ Managed services.

Ngoài những lợi ích trong việc giảm chi  phí  đầu  tư CAPEX  và  chi  phí  khai thác  cũng  như  nhân công,  thuê  ngoài toàn bộ việc thiết lập mạng theo mô hình chìa  khóa  trao  tay  cho  đơn  vị  chuyên nghiệp xây dựng mạng sẽ tiết kiệm thời gian đưa mạng vào hoạt động đồng thờicác nhà khai  thác Viễn  thông  sẽ nhanhchóng đưa được dịch vụ của mình ra thịtrường và nhanh chóng thu doanh thu.

Với việc lựa chọn và hợp tác với 1 đối tác  cung  cấp Managed  services để  thiết lập mạng và phát triển, kinh doanh Viễn thông, nhà khai  thác Viễn  thông có  thể tập  trung  toàn bộ nguồn  lực  của mình vào  những  việc  quan  trọng mà  qua  đó có  thể  giúp  cho  nhà  khai  thác  tạo  nên những  lợi  thế  cạnh  tranh  và  hiệu  quả kinh doanh cho mình, tập trung hơn vào những hoạt động tạo nên doanh thu, đó là việc xây dựng thương hiệu, marketing, bán hàng, chăm sóc khách hàng. Những việc từ trước chiếm một phần lớn nguồn lực con người,  tài chính và quản  lý của nhà khai  thác bao gồm xây dựng mạng lưới,  xây  dựng  và  vận  hành  hệ  thống quản lý mạng, phát triển các phần mềm ứng  dụng,  tính  cước  sẽ  được  chuyển cho  đơn  vị  cung  cấp  dịch  vụ Managed services. Các đơn vị cung cấp Managed services lại chính là những nhà cung cấp thiết  bị Viễn  thông  lớn,  có  đầy  đủ  các giải pháp đồng bộ mạng do vậy sẽ có thế mạnh hơn trong việc xây dựng, vận hành quản lý và bảo dưỡng kỹ thuật mạng.  

Các nhà cung cấp dịch vụ lớn trên thế giới đã và đang tập trung nâng cao năng lực thiết bị công nghệ của mình để có thể cung cấp những giải pháp  toàn diện và nâng cao năng lực của đội ngũ nhân viên để có thểđảm đương được việc quản lý bảo  dưỡng  mạng  Viễn  thông.  Những công  ty  hàng  đầu  cung  cấp dịch  vụ Managed services cho các nhà khai thác Viễn  thông  là  Ericsson, Nokia  Siemens Network, Motorola, Alcatel Lucent…

Ericson:  Là  nhà  cung  cấp  dịch  vụ Managed services hàng đầu trên thế giới. Bắt  đầu  cung  cấp  dịch  vụ  này  từ  năm 2002, đến nay Ericsson đã có được  trên100 hợp đồng cung cấp dịch vụ Managed services cho các nhà khai thác trên toàn thế giới, phục vụ cho trên 210 triệu thuê bao. Với trên 75,000 nhân viên hoạt động trên  175 nước  trên  thế  giới, doanh  thu của Ericsson năm 2007 đạt 27,9 tỷ USD.

Nokia& Siemens network: Là một đơn  vị  lớn  cung  cấp  dịch  vụ Managed services. Bắt đầu triển khai các hợp đồng này từ 2005, hiện nay Nokia Siemens đã có tới trên 160 hợp đồng với các nhà khai thác, cung cấp dịch vụ cho trên 130 triệu thuê bao trên toàn thế giới.

Motorola: Là một trong những nhà cung cấp thiết bị Viễn thông vô tuyến, đa phương tiện, băng rộng hàng đầu trên thế giới với  trên 66,000 nhân viên  làm việc trên khắp thế giới, doanh thu năm 2007 đạt 36,6  tỷ  USD  hiện  đang  phát  triển mạnh hoạt động của mình trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ Managed services. 

Alcatel  Lucent:  Nhà  cung  cấp  các giải pháp, thiết bị hạ tầng mạng và dịch vụ  thoại,  số  liệu,  video,  di  động, mạng băng rộng, mạng IP trên toàn thế giới có trên 20,000 nhân viên, hoạt động ở 130 nước  trên  thế  giới  với  doanh  thu  năm 2007 là 17,8 tỷ Euro. Alcatel Lucent hiện đang triển khai dịch vụ Managed services cho 65 mạng trên thế giới, phục vụ trên 100 triệu thuê bao.
  
Tuy  xuất  hiện  gần  đây  nhưng  xu hướng  thuê  ngoài  toàn  bộ  những  hoạt động kỹ thuật của mình để tập trung vào các  hoạt  động mang  lại  doanh  thu  đã được  sự ủng hộ của  rất nhiều nhà khai thác Viễn thông. Tậm chí nhiều dự án có giá trị tới hơn 2 tỷ USD.
Một Số dự án Managed ServiceS điển hình

- Táng 9/2008: Với bản hợp đồng trị giá 450 triệu USD có thời hạn trong 3 năm, Ericsson cung cấp hệ thống và vận hành, bảo dưỡng, quản lý hàng ngày để hiện đại hóa mạng và chuyển đổi mạng của  Hanoi  Telecom  từ  CDMA  sang GSM/EDGE. 

- Tháng 3/2008: Hợp đồng cung cấp dịch vụ Managed services để quản lý vận hành  và  bảo  dưỡng  toàn  bộ mạng  của Mobily  có hiệu  lực  trong 3 năm  là hợp đồng  lớn  nhất  của  Ericsson  và  là một trong những hợp đồng Managed services lớn nhất của ngành Viễn thông. 
  
- Tháng  12/2007:  Nokia  Siemens Networ  ký  hợp  đồng  trị  giá  150  triệu USD  với  Greenfeld  Ấn  Độ  để  quản lý  bảo  dưỡng  mạng  GSM/GPRS    của Greenfeld. Đây  là  hợp  đồng  tiếp  theo hợp  đồng phát  triển  mạng  GSSM  ký năm trước với trị giá 500 triệu USD.

 -  Tháng  3/2007:  Nokia  Siemens Network  cung  cấp  trọn  gói  thiết  bị mạng, dịch vụ lắp đặt quản lý bảo dưỡng và đào tạo để thiết  lập mạng WCDMA 3G cho RCS&RDS Rumania.

 - Tháng  3/2008:  Alcatel  được  lựa chọn  là nhà  cung  cấp  dịch  vụ  quản  lý bảo dưỡng,  tối ưu hóa mạng và hỗ  trợ kỹ thuật cho Mobily trong 3 năm.

 - năm 2007: Với hợp đồng  trị  giá 100  triệu  USD,  Alcatel  Lucent  sẽ  xây dựng  theo mô hình  chìa khóa  trao  tay và quản lý mạng GSM cho Hits Telecom Uganda.

 - Tháng 3/2007: Với hợp đồng trong 4 năm Motorola cung cấp trọn gói việc quản  lý  và bảo dưỡng mạng GSM  của Warid Telecom

 - Tháng 10/2006: Cùng với hợp đồng cung cấp dịch vụ  lập kế hoạch, thiết kế, cung cấp thiết bị và lắp đặt mạng thoại và dữ liệu không dây trên phạm vi cả nước Pakistan, Motorola cung cấp dịch vụ vận hành bảo dưỡng mạng wi4-Wimax/IMS của Wateen Telecom áp dụng tại Việt Nam.


Tại  Việt  nam,  hình  thức Managed services đã bắt đầu được áp dụng, trước hết đó  là  sự  xuất hiện  của những Data Center,  cho  phép  các  đơn  vị  thuê  chỗ trên Server để phát  triển các  trang Web của mình  hoặc  thuê  chỗ  đặt  Server  và để các đơn vị cho thuê bảo dưỡng, đảm bảo điện, điều hòa cho Server hoạt động. Gần đây  các một  số nhà khai  thác như Mobifone,  Viettel  đã  thuê  ngoài  một phần  công  việc  trả  lời  cuộc  gọi,  giải đáp khiếu nại khách hàng, đã xuất hiện những đơn vị cung cấp dịch vụ gia tăng cho  thuê hệ  thống, đầu số của mình để các đơn vị cung cấp nội dung cung cấp dịch vụ cho khách hàng của mình. Mới đây nhất, Hanoi Telecom đã ký một hợp đồng  lớn nhất từ trước đến nay tại Việt Nam  trong  lĩnh  vực  Viễn  thông  có  trị giá  tới 450  triệu USD với nhà cung cấp dịch  vụ Managed  servies  hàng  đầu  thế giới Ericsson. Với hợp đồng này, Hanoi Telecom  có  thể dựa  vào Ericsson  trong toàn bộ việc chuyển đổi từ mạng CDMA sang mạng GSM,  xây  dựng,  phát  triển, vận hành bảo dưỡng kỹ thuật mạng một cách  chuyên  nghiệp  nhất  để  tập  trung nguồn  lực của mình cho việc xây dựng thương hiệu, tiếp thị, bán hàng và chăm sóc khách hàng. Đây có thể là một sự lựa chọn  tốt nhất của Hanoi Telecom để có thể nhanh chóng thiết lập mạng và triển khai kinh doanh để kịp bắt nhịp với sự phát triển đến chóng mặt của thị trường dịch vụ di động tại Việt Nam hiện nay.


Ngoài những lợi ích trong việc giảm chi phí đầu tư CAPeX  và chi phí khai thác cũng như nhân công, thuê ngoài toàn bộ việc thiết lập mạng theo mô hình chìa khoá trao tay cho đơn vị chuyên nghiệp xây dựng mạng sẽ giảm được thời gian đưa mạng vào hoạt động, các nhà khai thác viễn thông sẽ nhanh chóng đưa được dịch vụ của mình ra thị trường và nhanh chóng có doanh thu.

Theo Nguyen Hoang 

congnghethongtin-tintuc.blogspot.de

Tin liên quan